EnglishVietnamese

LÀM SAO DOANH NGHIỆP CHẬM TRẢ LƯƠNG CHO LAO ĐỘNG?

LÀM SAO DOANH NGHIỆP CHẬM TRẢ LƯƠNG CHO LAO ĐỘNG?

1/ Do tình hình khó khăn nhiều doanh nghiệp chậm trả lương cho người lao động. Tuy nhiên việc chậm trả lương khiến nhiều người lao động gặp khó khăn khi không có thu nhập để chi tiêu sinh hoạt. Thưa luật sư, doanh nghiệp được chậm trả lương cho lao động trong khoảng thời gian bao lâu?

Trả lời:

Do hình dịch bệnh, nhiều doanh nghiệp khó khăn trong sản xuất kinh doanh lẫn phân phối hàng hóa dẫn dến tình trạng chậm trả lương cho người lao động, nhiều lao động bị chậm lương trong suốt nhiều tháng và không thể tiếp tục ở lại thành phố vì không đủ điều kiện sống.

Theo Điều 94 Bộ luật lao động số: 45/2019/QH14 thì người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Tại Điều 97 Bộ luật lao động quy định về kỳ hạn trả lương:

1. Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 15 ngày phải được trả gộp một lần.

  1. Người lao động hưởng lương theo tháng được trả một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần. Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ấn định vào một thời điểm có tính chu kỳ.
  2. Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.
  3. Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.

=> Do vậy, người sử dụng phải trả lương đúng hạn theo quy định trên của pháp luật và chỉ được nợ lương không quá 30 ngày trong trường hợp bất khả kháng.

Bên cạnh đó người lao động còn được nhận thêm lãi ngân hàng của số tiền chậm trả.

Nếu quá hạn, hoặc không có ý định trả lương cho lao động thì lao động cần làm gì để lấy lại được tiền lương mà doanh nghiệp chậm trả hoặc không trả?

Trả lời:

 

Điều 187 Bộ luật lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021) quy định về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, cụ thể như sau:

“Điều 187. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao gồm:

  1. Hòa giải viên lao động;
  2. Hội đồng trọng tài lao động;
  3. Tòa án nhân dân”.

 

Trong đó, tranh chấp lao động cá nhân phải được giải quyết thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Tòa án giải quyết (Điều 88 Bộ luật LĐ 2019). Do vậy lao động cá nhân có thể viết đơn yêu cầu hòa giải viên lao động tiến hành hòa giải vụ việc. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu hoà giải, hòa giải viên lao động phải kết thúc việc hòa giải.

Trong trường hợp hoà giải không thành hoặc một trong hai bên không thực hiện các thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều này mà hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải thì bên tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết (Điều 32 Bộ luật TTDS 2015)

 

2/ Vậy doanh nghiệp chậm trả lương hoặc không trả lương cho người lao động bị xử phạt như thế nào thưa luật sư?

Trả lời:

Căn cứ theo Điều 16 Nghị định 28/2020/NĐ-CP phạt tiền người sử dụng lao động có một trong các hành vi:

  • Trả lương không đúng hạn theo quy định tại Điều 94 của Bộ luật Lao động;
  • Trả lương thấp hơn mức quy định tại thang lương, bảng lương đã gửi cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện;
  • Trả lương làm thêm giờ, làm việc ban đêm cho người lao động thấp hơn mức quy địntại Điều 98 của Bộ luật Lao động
  • Khấu trừ tiền lương của người lao động trái quy định tại Điều 102 của Bộ luật Lao động;
  • Trả không đủ tiền lương ngừng việc cho người lao động theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật Lao động

 

Mức xử phạt đối với người sử dụng lao động về vi phạm tiền lương

 

Nếu công ty có hành vi không trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng thời hạn thì tùy theo mức độ công ty đó sẽ bị phạt tiền theo khoản 2 Điều 16 Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng:

  • Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;
  • Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;
  • Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng với vi phạm từ 51 người đến 100 người laođộng;
  • Từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;
  • Từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.

 

Xúc phạm trên mạng xã hội thì bị xử lý như thế nào?

Xúc phạm trên mạng xã hội thì bị xử lý như thế nào?
  • Trong lĩnh vực dân sự:

 

  • Căn cứ Điều 34 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và Điều 584 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
  • Căn cứ từ Điều 589 đến Điều 592 Bộ luật Dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
  • Thì cá nhân bị xâm phạm có quyền yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, yêu cầu đính chính, xin lỗi công khai và bồi thường thiệt hại.
  • Trong lĩnh vực hành chính:

 

Khoản 3, Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP xử phạt VPHC trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin quy định phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

“a) Cung cấp nội dung thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân;”

  • Có thể bị xử lý hình sự:

Khi xúc phạm người khác trên mạng xã hội có thể bị xử lý hình sự về tội làm nhục người khác căn cứ tại Điều 155 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.  Người nào xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người khác có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10 – 30 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

– Phạm tội 02 lần trở lên;

– Đối với 02 người trở lên;

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

– Đối với người đang thi hành công vụ;

– Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;

– Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

– Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%.

 

Nặng nhất, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 02 – 05 năm khi gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 – 05 năm.

 

Việc thuê, mượn chứng chỉ hành nghề trong khám chữa bệnh; việc làm giả các giấy tờ bằng cấp (nói chung) được xử lý như thế nào?

Việc thuê, mượn chứng chỉ hành nghề trong khám chữa bệnh; việc làm giả các giấy tờ bằng cấp (nói chung) được xử lý như thế nào?

 

  1. Trong lúc khám chữa bệnh, việc thuê, mượn chứng chỉ hành nghề được xử lý như thế nào?

Hiện nay, trình trạng cho thuê- mượn chứng chỉ hành nghề trong ngành y tế diễn ra rất phổ biến khiến nhiều người đến khám, chữa bệnh hoang mang, lo lắng.

Hành vi thuê, mượn chứng chỉ hành nghề là hành vi vi phạm pháp luật được quy định cụ thể tại khoản 7 Điều 38 của Nghị định 117/2020/NĐ-CP ngày 28 tháng 9 năm 2020 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế. Trong đó việc Thuê, mượn chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh để hành nghề hoặc cho người khác thuê, mượn chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

 

  1. Hành vi làm giả các giấy tờ bằng cấp (nói chung) được quy định và xử lý như thế nào?

Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm của hành vi làm giả các giấy tờ bằng cấp mà có thể bị xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự.

– Hành vi làm giả các giấy tờ bằng cấp sẽ bị xử phạt hành chính từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng kèm theo đó là hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện làm giấy tờ giả (quy định tại Điều 16 Nghị định 138/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục)

– Ngoài ra, trong một số trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi làm giả các giấy tờ bằng cấp và dùng chứng chỉ đó để thực hiện những hành vi trái pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi vi phạm này có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

       

  1. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và ngành y tế trước tình trạng công khai rao bán giấy tờ giả và thuê mượn chứng chỉ hành nghề?

Trong lĩnh vực y tế, việc sử dụng chứng chỉ hành nghề giả, thuê mượn chứng chỉ hành nghề của người khác để sử dụng có thể gây ra những hâu quả rất nghiêm trọng, vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước về y tế cần thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở y tế, cán bộ y tế để tránh việc sử dụng bằng cấp, chứng chỉ giả.

Khi phát hiện có hành vi rao bán giấy tờ giả và cho thuê mượn chứng chỉ hành nghề, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải tiến hành xử lý nghiêm và nhanh chóng theo các quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn hậu quả xảy ra đồng thời răn đe các tổ chức, cá nhân, ngăn ngừa các hành vi vi phạm tương tự xảy ra.

 

PHÂN CHIA TÀI SẢN KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN

PHÂN CHIA TÀI SẢN KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN

Thứ tự phân chia tài sản khi công ty bị tuyên bố phá sản?

Thứ tự phân chia tài sản khi doanh nghiệp phá sản theo quy định pháp luật

Luật phá sản 2014 quy định như sau:

Điều 41. Tạm đình chỉ giải quyết yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thực hiện nghĩa vụ về tài sản

3. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có bảo đảm.

Trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì xử lý theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 53 của Luật này.

Điều 53. Xử lý khoản nợ có bảo đảm

1. Sau khi mở thủ tục phá sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất Thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Luật này, Thẩm phán xem xét và xử lý cụ thể như sau:

a) Trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ;

b) Trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm. Việc xử lý khoản nợ có bảo đảm theo quy định tại khoản 3 Điều này.

2. Trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề nghị Thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định tại khoản 3 Điều này.

3. Việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều này được thực hiện như sau:

a) Đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó;

b) Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Điều 54. Thứ tự phân chia tài sản

1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được phân chia theo thứ tự sau:

a) Chi phí phá sản;

b) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể đã ký kết;

c) Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;

d) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.

2. Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy định tại khoản 1 Điều này mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về:

a) Thành viên hợp tác xã, hợp tác xã thành viên;

b) Chủ doanh nghiệp tư nhân;

c) Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;

d) Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, cổ đông của công ty cổ phần;

đ) Thành viên của Công ty hợp danh.

3. Nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều này thì từng đối tượng cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.

Như vậy,

Khi Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được phân chia theo thứ tự sau:

  • Chi phí phá sản;
  • Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;
  • Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã
  • Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.

Nếu trong trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thanh toán đủ các khoản trên mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về:

  • Thành viên hợp tác xã, hợp tác xã thành viên;
  • Chủ doanh nghiệp tư nhân;
  • Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
  • Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, cổ đông của công ty cổ phần;
  • Thành viên của Công ty hợp danh.

Trường hợp hai: Nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán trường hợp một thì từng đối tượng cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.

TẠI SAO PHẢI ĐẢM BẢO TÍNH CẠNH TRANH CÔNG BẰNG TRONG ĐẤU THẦU

TẠI SAO PHẢI ĐẢM BẢO TÍNH CẠNH TRANH CÔNG BẰNG TRONG ĐẤU THẦU

Hoạt động đấu thầu được quy định tại Luật Đấu thầuLuật Thương mại

Việc cạnh tranh công bằng yếu tố giúp cho các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Do đấu thầu là hình thức lựa chọn người cung cấp hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ. Người tổ chức mời thầu sử dụng cơ chế cạnh tranh bằng cách đưa ra gói thầu để các bên dự thầu cạnh tranh nhau về giá, về chất lượng… với mục đích tìm được người cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ có chất lượng tốt nhất và mức giá rẻ nhất. Cơ chế cạnh tranh được vận hành theo cách thức những người dự thầu (là người có nhu cầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ đang mong muốn có được gói thầu) ganh đua nhau về các điều kiện thương mại hoặc kỹ thuật, đặc biệt là giá cả. Người nào có mức giá thấp nhất (là mức giá tối ưu đối với người mua) sẽ được lựa chọn. Pháp luật về đấu thầu và pháp luật thương mại quy định các hình thức đấu thầu tương ứng với mức độ cạnh tranh giữa những người dự thầu như đấu thầu rộng rãi; đấu thầu hạn chế; chỉ định thầu; mua sắm trực tiếp và chào giá cạnh tranh… Cơ chế cạnh tranh được đánh giá là hiệu quả khi nó lựa chọn được người trúng thầu là người đưa ra và có năng lực thực hiện các điều kiện thương mại tốt nhất cho người mời thầu.

Sự cạnh tranh giữa các nhà thầu sẽ tạo thuận lợi cho bên mời thầu (chủ đầu tư) lựa chọn được hàng hoá và dịch vụ hợp nhất với yêu cầu của mình và với giá cả thấp nhất.

Hạn chế hành vi “thông thầu” nhất là đối với các lĩnh vực xây dựng cơ bản và mua sắm vật chất từ tài sản công. Có 2 hình thức thông thầu, một là hành vi “ thông thầu” trong việc các bên dự thầu giàn xếp, thỏa thuận cùng hành động để một hoặc các bên trong số họ thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ như vậy chủ đầu tư sẽ không thể lựa chọn nhà thầu tốt nhất, hai là chính chủ đầu tư đã “giàn xếp” kết quả thắng thầu để ăn chia với nhà thầu… Điều này sẽ gây thâm hụt ngân sách nhà nước, ăn chặn tiền đầu tư dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng khác. Chính vì thế pháp luật quy định về việc các chủ thể tham gia đấu thầu phải đảm bảo sự độc lập về pháp lý và về tài chính trong các trường hợp cụ thể tại Điều 6 Luật Đấu thầu.

Việc đảm bảo tính cạnh tranh trong đấu thầu là biện pháp để chống tham nhũng, lãng phí quản lý tài sản nhà nước. Do đó, việc lựa chọn nhà thầu sẽ được công khai, tránh được phần nào việc “giàn xếp” kết quả thắng thầu với các nhà thầu và chủ đầu tư.

ĐƠN KIẾN NGHỊ KHẨN CẤP – HOA HẬU PHƯƠNG NGA

ĐƠN KIẾN NGHỊ KHẨN CẤP – HOA HẬU PHƯƠNG NGA

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HÃNG LUẬT HƯNG YÊN
Số:…../2017/CV

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐƠN KIẾN NGHỊ KHẨN CẤP
(V/v. Người tiến hành tố tụng có dấu hiệu xử lý vật chứng vi phạm tố tụng, cần phải trả lại cho bị can để phù hợp với quy định tố tụng)

Kính gửi: –   VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP. HỒ CHÍ MINH;

–   THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN ĐIỀU TRA CÔNG AN TP. HỒ CHÍ MINH.

Kính thưa các quý vị Lãnh đạo,

Tôi là luật sư Nguyễn Văn Quynh thành viên Hãng Luật Hưng Yên – Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội.

Trụ sở: Nhà số 06 ngõ 19 đường Giải Phóng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng – Hà Nội.

Địa chỉ liên lạc: Hãng Luật Hưng Yên, Lầu 06, phòng 606 Tháp B, Tòa nhà Indochina Park Tower, số 04 Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, quận 1, Tp. HCM. Điện thoại: 0868109102 – 0948222265 – Email: Hangluathungyen@gmail.com

Là người bào chữa cho bị can Nguyễn Đức Thuỳ Dung – người bị Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra Cáo trạng truy tố về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 04, Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời chúc sức khoẻ tới các Quý vị Lãnh đạo, lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới các Quý vị Lãnh đạo đã quan tâm xem xét đến kiến nghị của tôi cũng như nội dung vụ án, đồng thời để kiểm tra, giám sát, chỉ đạo giải quyết, yêu cầu các Cơ quan liên quan phải tôn trọng sự thật khách quan, tuân thủ đúng quy định của pháp luật về trình tự thủ tục, thẩm quyền, đối với nội dung kêu oan của các bị cáo nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, bị can, bị cáo, tránh gây phiền hà dẫn tới oan, sai.

Thưa Quý vị Lãnh đạo,

Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, chúng tôi phát hiện có hành vi vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng về xử lý vật chứng của Người tiến hành tố tụng gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của cô Nguyễn Đức Thùy Dung:

Theo hồ sơ bút lục thể hiện, sau khi đã thu giữ số tiền 2,5 tỷ đồng từ tài khoản ngân hàng của Nguyễn Đức Thùy Dung tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Gia Định vào tài khoản của Cơ quan điều tra tại Kho bạc Nhà nước Quận 10, ngày 19 tháng 11 năm 2015, Cơ quan điều tra đã ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 13-16 , trả lại 2.508.750.000 đồng cho chủ sở hữu là ông Cao Toàn Mỹ (BL 1056, 1057). Sau đó, ngày 24/11/2015, Điều tra viên Nguyễn Thanh Tùng đã đến Kho bạc nhà nước Quận 10 rút tiền mặt (BL 1060) và giao trả cho ông Cao Toàn Mỹ vào cùng ngày. Đáng lưu ý là toàn bộ các việc làm này của Cơ quan điều tra đều được thực hiện trong thời gian đang tiến hành điều tra.

Như vậy, hoàn toàn có căn cứ để xác định rằng Cơ quan điều tra đã tiến hành xử lý vật chứng trái pháp luật vì:

  1. Khoản 1 Điều 76 BLTTHS có quy định thời điểm mà Cơ quan điều tra được ra quyết định xử lý vật chứng là trả cho chủ sở hữu hoặc người quan lý hợp pháp là khi vụ án bị đình chỉ trong giai đoạn điều tra. Vậy mà trong thời gian điều tra, chưa có quyết định đình chỉ vụ án, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng theo hướng trả lại tài sản, là 2,5 tỷ thu giữ được từ tài khoản ngân hàng của Nguyễn Đức Thùy Dung, cho ông Cao Toàn Mỹ. Điều này là hết sức bất thường và đặc biệt là không có căn cứ pháp luật về thời điểm.
  2. Thêm vào đó, việc xử lý tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 76 BLTTHS còn phải đáp ứng hai điều kiện là vật chứng phải được trả lại cho người chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với vật chứng đó và việc trả lại vật chứng không gây ảnh hưởng tới quá trình điều tra. Cả hai điều kiện nêu trên đều không được đáp ứng. Điều này được thể hiện rất rõ trong hồ sơ vụ án:
  • Các biên bản hỏi cung bị can và biên bản tự khai của Nguyễn Đức Thùy Dung luôn có sự mâu thuẫn về nguồn gốc của số tiền này. Bên cạnh những biên bản với nội dung mong muốn khắc phục hậu quả thì vẫn còn một số biên bản với nội dung hoàn toàn trái ngược. Cụ thể, tại 2 bản tự khai ngày 19/3/2015 – BL 302, 13/10/2015 – BL 328 và biên bản hỏi cung bị can ngày 19/3/2015 – BL 302, Nguyễn Đức Thùy Dung cho rằng đây là số tiền riêng và không phải là số tiền chiếm đoạt của anh Mỹ. Rõ ràng, trong lời khai của Thùy Dung còn nhiều mâu thuẫn, tình tiết vụ án chưa được sáng tỏ.

 

  • Tuy nhiên trong vụ án này, CQĐT thu giữ và trả số tiền 2,5 tỷ cho ông Cao Toàn Mỹ để khắc phục hậu quả trong khi không xác định được nguồn gốc của số tiền trên. Cụ thể, Vụ án chưa kết thúc, chưa xác định ai là chủ nhân của số tiền 2,5 tỷ, căn cứ nào để cơ quan điều tra xác định 2 vấn đề: thứ nhất, Ông Mỹ là chủ nhân của số tiền 2,5 tỷ trong tài khoản BIDV của Thùy Dung và thứ hai, việc trả lại số tiền trên không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án? Đối với vấn đề thứ nhất, tại bản tường trình ngày 12/12/2016 (BL1703) của Trương Hồ Phương Nga khẳng định “Tôi (Nga) là người đang giữ và hưởng toàn bộ số tiền 16,5 tỷ đồng trong vụ án này. Nguyễn Đức Thùy Dung đã giao lại cho tôi toàn bộ số tiền Dung nhận được từ Cao Toàn Mỹ”. Phương Nga là người đang nắm giữ và thừa nhận việc nắm giữ toàn bộ số tiền trên. Số tiền 2,5 tỷ đồng trong tài khoản BIDV Nguyễn Đức Thùy Dung là số tiền cá nhân Thùy Dung có, cơ quan điều tra không có chứng cứ nào để chứng minh ông Mỹ là chủ nhân của số tiền này mà lại vội vàng ra quyết định xử lý vật chứng (BL 1057), đây là việc xử lý không có căn cứ pháp luật, khi vụ án về thẩm quyền chưa được đình chỉ điều tra theo khoản 01 điều 76 BLTTHS. Đối với vấn đề thứ hai, Cơ quan điều tra tiến hành trả số tiền 2,5 tỷ căn cứ vào việc cho rằng hành vi này không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án là hoàn toàn không có căn cứ. Vì, tòa tuyên bố trả hồ sơ điều tra bổ sung, hai bị can không bị kết tội và đã được tại ngoại. Các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội của Trương Hồ Phương Nga và Nguyễn Đức Thùy Dung, mặc khác tôi có đầy đủ chứng cứ để chứng minh cho thân chủ của tôi là vô tội. Số tiền 16,5 tỷ đồng mà Phương Nga đang giữ hay số tiền 2,5 tỷ đồng trong tài khoản của Thùy Dung đều là tiền hợp pháp của họ. Cơ quan điều tra đã mặc định rằng Phương Nga và Thùy Dung có tội nên lấy số tiền phạm tội khắc phục hậu quả, hành vi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xử lý vụ án trái với nguyên tắc tại Điều 76 BLTTHS và này trái với nguyên tắc suy đoán vô tội của bộ luật này. Qua đó, khẳng định được sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của cơ quan điều tra trong quá trình xử lý vụ án này.

Tóm lại, từ tất cả những chứng cứ, bút lục có trong hồ sơ vụ án và lập luận trên, tôi cho rằng việc tiến hành điều tra vụ án đã vi phạm quá nhiều thủ tục tố tụng với mức độ nghiêm trọng, gây ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả điều tra vụ án và xâm hại vô cùng nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các bị can, gây oan sai cho các bị can. Đây cũng là một trong những lý do chính khiến bị can có thái độ tiêu cực, không tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng.

Mặt khác, dù Cơ quan điều tra đã không tuân thủ nghiêm các quy định về trình tự tố tụng nhưng Viện kiểm sát lại không có bất cứ động thái gì, không thực hành nghiệp vụ kiểm sát điều tra vụ án hình sự nhưng lại cùng Cơ quan điều tra dùng những chứng cứ được thu thập không đúng trình tự thủ tục để buộc tội các bị can là trái với nguyên tắc suy đoán vô tội.

Theo quy định tại thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT tại khoản 2 Điều 4 về Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì phải trả hồ sơ vụ án để khắc phục những thiếu sót, vi phạm về thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, trong vụ án này, những vi phạm tố tụng mà tôi đề cập nêu trên là không thể khắc phục được, bởi lẽ không thể thả bị can ra cho khởi tố lại, tống đạt lại, xong điều tra lại… do đó các vi phạm này đã xâm phạm quyền lợi của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền và lợi ích hợp pháp của bị can Phương Nga.

Trên đây là toàn bộ nội dung “Kiến nghị khẩn cấp” của tôi về vụ án, gửi tới Quý vị Lãnh đạo Nhà Nước và lãnh đạo các Cơ quan tư pháp trung ương để xem xét giải quyết, đồng thời giám sát, yêu cầu, chỉ đạo các cơ quan liên quan thực hiện, tuân thủ đúng theo trình tự pháp luật tố tụng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người liên quan và các bị can trong vụ án.

      Xin chân thành cảm ơn và kính chào!

                                                                                                       KÍNH ĐƠN

LUẬN CỨ GIẾT NGƯỜI, CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

LUẬN CỨ GIẾT NGƯỜI, CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Vụ án giết người, cố ý gây thương tích xảy ra tại quán Karaoke Kington làm 2 (hai) người thiệt mạng. Nội dung vụ án như sau:

Ngày 21/7/2017 Công cùng nhóm anh em có đến quán Karaoke Kington để hát, Công là khách quen tại đây. Trước đó, Công đã có gọi điện cho Xuân là chủ quán để đặt phòng và yêu cầu có nhân viên nữ phục vụ. Khi đến quán được 1 thời gian nhưng không có nhân viên phục vụ nên có phát sinh mâu thuẫn nhỏ dẫn đến Công có hành động quá khích làm hư hại 2 tài sản là 1 micro và 1 thùng rác có gạt tàn, và Công đã có lời đề nghị sẽ bồi thường những tài sản hư hại trên. Tuy nhiên, phía quán đã đưa một số thành phần xã hội đen đến đe doạ Công dẫn đến các bên đánh nhau và gây thiệt mạng cho 2 người Nguyễn Đức Bảng và Phạm Duy Thành.

Quá trình xảy ra vụ án được chia rõ ràng theo 2 giai đoạn, mâu thuẫn tranh cãi trong 2 giai đoạn cũng hoàn toàn khác nhau.

Giai đoạn 1: tranh cãi mâu thuẫn do việc thiếu nhân viên nữ phục vụ

Khi Công cùng anh em đến quán Kington, do đã gọi điện cho Xuân đặt phòng trước cũng như yêu cầu nhân viên nữ phục vụ. Tuy nhiên, khi đến thì không có những nhân viên như yêu cầu dẫn đến các bên có tranh cãi qua lại và Công làm hỏng micro và thùng rác có gạt tàn thuốc. Sau đó, khi quán điều nhân viên đến phòng của Công thì các bên cũng giải quyết ổn thoả, Công cũng đề nghị sẽ bồi thường cho phần thiệt hại mà mình gây ra. Công và nhóm anh em trở lại phòng và tham gia hát bình thường, không có ồn ào nào thêm. Sự việc các bên có mâu thuẫn từ việc không có nhân viên phục vụ đã chấm dứt.

Giai đoạn 2: tranh cãi mâu thuẫn do tranh cãi giữa Công Thành Bản và Tình, Linh.

Tuy nhiên, khi mọi chuyện tưởng như đã êm đềm thì Huệ, Tình và Linh lại theo chỉ thị của Xuân đến gặp Công để nói chuyện. Theo đó, Tình và Linh mang theo hung khí đến. Công và anh em đang đi từ phòng vệ sinh trở về phòng hát karaoke thì Tình và Linh chặn lại, yêu cầu giải quyết về việc ồn ào, chủ yếu là để dằn mặt và đe doạ Công. Tuy nhiên, sau rất nhiều lần Công yêu cầu gọi cho Xuân để giải thích nhưng Huệ, Tình và Linh từ chối, dùng lời lẽ đe doạ và cuối cùng thì xảy ra việc đánh giết nhau dẫn đến thiệt hại về tính mạng.

Quá trình diễn ra vụ việc được camera ghi lại đầy đủ. Theo kết luận điều tra của CQCSĐT và cáo trạng của VKS xác định, Nguyễn Hữu Xuân không tham gia vào quá trình đánh nhau và không có căn cứ cho rằng Nguyễn Hữu Xuân đã có hành vi cố ý giết người. Tuy nhiên, qua nghiên cứu hồ sơ chúng tôi có những ý kiến pháp lý đối với vụ án, Cụ thể như sau:

  1. Lời khai của Tình, Xuân là người gọi cho Tình và yêu cầu Tình gọi thêm người đến quán, yêu cầu xử lý nhóm Công (BL 276,278, 301). Tại BL 276 Xuân yêu cầu Tình nếu nhóm Công cà chớn sẽ đập luôn.

    Tại bút lục 276, 278 lời khai của Phạm Thái Văn Tình tại bản tự khai ngày 26/7/2017 về việc Xuân gọi điện cho Tình đến quán đề dàn xếp với nhóm của Công. Theo đó, Xuân đã yêu cầu Tình có bao nhiêu anh em thì kêu lên hết, nhóm của Công đông lắm và nếu nhóm Công gây chuyện thì đánh luôn. Sau đó, Xuân còn gọi lại và yêu cầu Tình gọi thêm anh em vì nhóm Công đông. Hành vi này chứng minh động cơ xác định việc đã có hành vi chuẩn bị cho việc đánh nhau. Các cuộc gọi cũng được xác nhận tại biên bản kiểm tra điện thoại di động của Nguyễn Hữu Xuân tại bút lục 385.

    Tại bút lục 301 biên bản ghi lời khai của Phạm Thái Văn Tình, Tình khai sau khi đến quán đi lướt qua lại phòng số 10, Tình và Linh đi xuống tầng trệt đến phòng điều hành gặp Xuân đang ở trong phòng điều hành thì Xuân nói với Tình “coi ở gần đây có anh em nào không thì gọi điện thoại đến phụ luôn” lúc này Tình hiểu ý của Xuân là gọi người đến để phụ đánh nhau. Nếu chỉ để nói chuyện với Công thì Xuân đã không cần thiết phải nhiều lần yêu cầu Tình gọi thêm anh em đến và còn nhấn mạnh là tại nhóm Công đông nên cần thêm nhiều người nữa.

    Hành vi gọi Tình đến quán, yêu cầu Tình đem thêm anh em đến cho thấy Xuân có ý định đánh nhau. Đồng thời, Xuân cũng nói với Tình nếu nhóm Công có hành vi gây rối thì đánh luôn. Tình đến quán theo sự yêu cầu của Xuân, đồng thời còn gọi thêm người cho thấy 2 bên đã thống nhất ý chí đối với việc đánh nhóm Công. Do đó, ý chí đánh nhóm Công đã được thống nhất từ đầu với Xuân chứ không phải Tình tự ý đánh nhóm Công mà không qua thoả thuận. Đối với quán làm ăn lớn như Karaoke Kington, việc những thành phần như Tình có thể đến và đánh khách hàng trong quán không phải là hành động nhất thời hay tự ý mà phải có sự cho phép, sắp xếp từ chủ quán. Tình đến theo yêu cầu của Xuân, đồng thời các vũ khí Tình sử dụng trong quá trình đánh nhau cũng là vũ khí của quán Kington. Nếu Xuân không gọi, không chỉ đạo Tình cũng không biết để đến và cũng không thể tự ý đánh khách. Có thể thấy mối liên hệ mật thiết giữa Tình và chủ quán Kington là Xuân. Do đó, Xuân là người chủ mưu trong vụ án này

  2. Xuân chỉ đạo việc đánh nhau

    Tại bút lục 281 bản tường trình của Phạm Thái Văn Tình, sau khi Tình đến quán và được Xuân chỉ số phòng mà nhóm Công đang ngồi. Xuân đi ra ngoài, một lúc sau thì Xuân gọi điện cho Tình hỏi tình hình. Xuân nói với Tình kêu tụi nó chơi ở đó chờ Xuân, Xuân sẽ về liền, đồng thời kêu Tình đem đồ (vũ khí) ra trước sẵn đi để chút nhóm Công ra về tụi nó quậy.

    Hành vi trên của Xuân rõ ràng là thống nhất ý chí, chỉ đạo cho việc Tình và nhóm anh em có thể xử lý nhóm của Công trong trường hợp nhóm Công có hành động quấy rối. Xuân yêu cầu đem vũ khí ra để sẵn trong các gốc cây để khi cần là sử dụng luôn, hành vi này là chuẩn bị sẵn sàng cho việc đánh nhau, hơn nữa là đã thực hiện nhiều lần, nên khi chỉ cần nói đem “hàng” ra sẵn là Tình đã biết đi lấy ở đâu và để ở đâu khi cần.

    Từ những căn cứ trên, cho thấy Xuân là người chủ mưu cho việc đánh nhau. Đặc biệt còn là người yêu cầu Tình cùng đồng bọn đến, dặn dò việc chuẩn bị hàng sẵn cũng như cho phép đánh nhóm Công nếu như nhóm Công có hành vi quá khích. Nếu không có sự hướng dẫn, cho phép của Xuân, Tình và đồng bọn cũng như nhân viên của quán Kington đã không biết hoặc không dám đánh khách tại quán như sự việc trên.

    Việc cơ quan điều tra kết luận Xuân không liên quan đến vụ việc đánh nhau là không có căn cứ, bỏ lọt tội phạm. Chúng tôi với tư cách là người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị hại yêu cầu làm rõ vai trò chủ mưu của Xuân trong vụ việc trên.

  3. Mâu thuẫn lời khai giữa Huệ cho rằng Huệ cầm thanh sắt đánh vào phần thuỷ tinh ống dẫn nước, Phúc khai nghe tiếng súng bắn (BL204). Chỉ có một âm thanh, vậy là súng hay tiếng đập thanh sắt?

    Tại bút lục 193 biên bản hỏi cung bị can Nguyễn Hữu Huệ, Huệ khai quá trình trên sân thượng, Xuân chỉ hỏi Công tại sao lại quậy quán thì Công xin tha, Xuân đồng ý. Huệ đã lấy thanh gỗ đập vô máy nước nóng năng lượng mặt trời tạo ra tiếng nổ. giải thích cho hành động này Huệ cho rằng vì  Công và Xuân cãi nhau, Huệ nói không nghe nên đã tạo tiếng động để gây chú ý. Tuy nhiên, giải thích trên của Huệ là không có căn cứ. Bởi căn cứ theo lời khai, nếu chỉ đơn giản Xuân và Công chỉ nói những lời trên thì không có lý do gì Huệ phải tạo ra tiếng động lớn để gây sự chú ý cả.

    Tại bút lục 201 Phúc khai thấy Xuân cầm cây súng đi lên, Tình Huệ cùng đi theo hướng đến lầu 2 ra sân thượng, có người bỏ chạy lên sân thượng thì Xuân rượt theo và nghe tiếng súng. Tiếng súng bắn và tiếng gõ vào bình nước nóng không giống nhau, gõ vào bình sẽ tạo tiếng vang kéo dài, còn súng thì không. Yêu cầu thực nghiệm hiện trường để xác nhận tiếng nổ.

    Tại BL 305 Tình khai trong quá trình đánh nhau có thấy Xuân cầm súng chạy từ ngoài sân vào trong quán để đánh nhau, thấy Xuân cầm súng chạy thẳng lên lầu và nghe tiếng súng nổ dù không biết ai nổ súng.

    Tại bút lục 210 biên bản ghi lời khai của Nguyễn Hồng Phúc ngày 22/7/2017 Phúc khai Xuân cầm 1 cây súng loại súng gấp cán bằng gỗ khi đi lên lầu đuổi theo 1 người khách, Phúc ở dưới lầu thì nghe tiếng súng nổ, lúc này có 2 người đi xuống từ sân thượng nói: “ông Xuân bắn chỉ thiên tưởng đâu ông bắn nó”. Vậy tiếng phát ra là tiếng súng hay tiếng đập bồn thuỷ tinh. Và 2  người từ sân thượng đi xuống là ai, đã chứng kiến cảnh Xuân bắn chỉ thiên như thế nào. Về điều này cần làm rõ, nếu có người chứng kiến cảnh Xuân bắn chỉ thiên vậy tại sao lại có lời khai Huệ đánh vào bồn thuỷ tinh tạo tiếng nổ trong khi 2 âm thanh này hoàn toàn khác nhau.

    Từ những căn cứ trên cho thấy đã có tiếng súng nổ, hoàn toàn không phải là tiếng thanh gỗ đánh vào bình nước nóng. Vậy Xuân đã có sử dụng khẩu súng được ghi nhận tại bản ảnh camera. Hơn nữa, cần làm rõ khẩu súng mà Xuân đã cầm tại thời điểm diễn ra vụ án, theo lời khai Xuân khai nhận nhặt được tại bải đất trống tuy nhiên điều này là không hợp lý và cũng k có căn cứ chứng minh cho việc khẩu súng là do Xuân nhặt được.

    Theo lời khai của Công, Xuân đã đưa súng bắn vào người Công. Tuy nhiên, kết luận giám định lại cho rằng vết xước trên cánh tay của Công không phải là vết do đạn bắn. Hiện trường tại sân thượng quán Kington vẫn chưa được khám nghiệm và thực nghiệm lại sự việc để xác nhận có phải Xuân đã bắn Công hay không? Và nếu bắn thì có trúng Công hay không? Viên đạn có được tìm thấy hay không?.

  4. Có những chứng cứ cho thấy việc Xuân cho xã hội đen đánh khách tại quán

    Sau khi vụ án được đem ra xét xử, nhiều người đã lên tiếng tiết lộ về những sự việc thường xảy ra tại quán, những vụ đánh khách đến bị thương nhưng lại không có bất cứ một cơ quan can thiệp.

    Điển hình là nhiều nhân viên từng làm việc tại quán Karaoke Kington đã tiết lộ, trong phòng điều hành của quán có rất nhiều vũ khí, đầy đủ các loại. Thường trực ở quán luôn có những thành phần xã hội đen chuyên bảo kê cho quán, đã nhiều lần đánh khách tại đây. Những nhận định trên là hoàn toàn có căn cứ khi mà ngày xảy ra vụ việc trên, Huệ đã yêu cầu Phúc lên kho lấy hàng (mã tấu, vũ..) để trải khắp nơi quanh quán (Lời khai Phúc tại bút lục 808). Bất ngờ trong hoàn cảnh đó, chỉ cần nói lên lấy hàng nhân viên đã biết được lấy ở đâu, và vũ khí thì sẵn có tại quán. Chứng tỏ rằng việc sử dụng những vũ khí trên không có gì xa lạ.

    Việc tàn trữ nhiều loại vũ khí nguy hiểm trong quán và các nhân viên cũng biết rõ vị trí cất giấu hàng (vũ khí), dễ dàng lấy ra khi “cần thiết” là vô cùng nguy hiểm, các vũ khí đều là vũ khí có tính sát thương cao. Do vậy, khi mâu thuẫn xảy ra, dù không phải mâu thuẫn lớn hay xung đột quyết liệt, vẫn dẫn đến sự việc đánh nhau đến tử vong. Các nhân viên cùng người của Kington dễ dàng sử dụng những vũ khí khi xảy ra tranh cãi. Điển hình trong vụ án trên, mâu thuẫn ban đầu vốn dĩ đã được giải quyết ổn thoả, nhóm Công đã tiếp tục sử dụng dịch vụ, đồng ý bồi thường và không có ồn ào gì thêm thì Huệ cùng nhóm Tình đến đe doạ dẫn đến đánh nhau, sử dụng các vũ khí đã chuẩn bị sẵn đánh người đến thương vong. Mức độ nguy hiểm đối với hành vi tích trữ vũ khí, cho người bảo kê quán của quán Kington là đáng lưu ý và cần làm rõ.

  5. Hành vi của Hoàng Văn Hưng là cố ý giết người

Tội giết người và cố ý gây thương tích khác nhau

Khi Hoàng Văn Hưng đến quán, liền lấy cưa để sẵn trong cốp ô tô , vừa lúc Phạm Duy Thành chạy ra, lúc này người của Phạm Duy Thành đã bị thương, nhưng khi Hưng vừa thấy Thành, liền dùng cưa chém vào người Thành 2 nhát, chém từ trên xuống trúng vào đầu Thành 1 nhát. Thành bỏ chạy ra ngoài, Hưng vẫn cố rượt theo chém trúng vào người Thành 3 nhát.

Hành vi trên của Hưng là hành vi có mục đích tước đoạt tính mạng của Thành. Sau khi chém trúng Thành 2 nhát, Thành bỏ chạy nhưng Hưng vẫn không tha, rượt theo để chém thêm và trúng vào người Thành 3 nhát. Mức độ tấn công của Hưng là nhanh và liên tục với cường độ tấn công mạnh có thể gây chết người. Chém liên tục trong khi nạn nhân không đủ khả năng chống trả.

Vị trí tác động trên cơ thể là đầu, vai. Phần đầu vô cùng nguy hiểm, Hưng chém từ trên xuống trúng vào đầu Thành, rõ ràng Hưng biết việc chém như vậy sẽ nguy hiểm đến tính mạng của Thành nhưng vẫn cố tình chém rất nhiều nhát vào Thành.

Vũ khí, hung khí mà Hưng đã sử dụng: Hưng dùng cưa là hung khí nguy hiểm, có tính sát thương cao. Hung khí này được Hưng để sẵn trong cốp xe của mình, và sẵn sáng mang ra chém người. Hành vi này của Hưng là vô cùng nguy hiểm cho xã hội.

Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích, người phạm tội chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả gây thương tích xảy ra. Nhưng đối với Hưng, là hành vi mong muốn tước đoạt mạng sống của nạn nhân. Hành vi của Hưng là đủ cấu thành tội giết người.

Trên đây là toàn bộ nhận định của tôi. Kính mong HĐXX xem xét

Xin chân thành cảm ơn!

HỒ SƠ THỦ TỤC ĐƠN PHƯƠNG LY HÔN

HỒ SƠ THỦ TỤC ĐƠN PHƯƠNG LY HÔN

Ngày nay, việc ly hôn trở nên phổ biến hơn với nhiều lý do khác nhau. Vậy Hồ sơ và thủ tục đơn phương ly hôn được quy định như thế nào.

1. Hồ sơ ly hôn
Đơn yêu cầu (Theo mẫu);
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;
CMND và hộ khẩu;
Giấy khai sinh các con;
Các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh tài sản chung như: GCNQSDĐ (sổ đỏ); Đăng ký xe; Sổ tiết kiệm… (nếu có)

2. Thủ tục ly hôn
Bước 1: Nộp hồ sơ về việc xin ly hôn tại TAND có thẩm quyền;
Bước 2: Nhận kết quả xử lý đơn;
Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí đơn phương cho Tòa án; (Mức án phí 300.000 đồng trong vụ án không có giá ngạch)
Bước 4: Tòa án sẽ triệu tập lấy lời khai, hòa giải và tiến hành thủ tục theo quy định pháp luật Tố tụng dân sự;
Bước 5: Trong trường hợp, Tòa án không chấp nhận yêu cầu ly hôn, người yêu cầu ly hôn có quyền kháng cáo để Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử phúc thẩm theo quy định pháp luật.

3. Thời gian giải quyết việc ly hôn
Trung bình thời gian để giải quyết ly hôn từ 4 – 6 tháng nếu không có tranh chấp phức tạp về tài sản.

4. Các trường hợp đặc biệt
Chồng không có quyền yêu cầu đơn phương ly hôn khi vợ đang mang thai hoặc con dưới 12 tháng tuổi;
Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú bị đơn, có thể yêu cầu Tòa án nơi làm việc của Bị đơn giải quyết;
Tòa sẽ triệu tập các con từ 7 tuổi đến dưới 18 tuổi để lấy lời khai về nguyện vọng sống với bố/mẹ.

ĐƠN PHƯƠNG LY HÔN

ĐƠN PHƯƠNG LY HÔN

Khi cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc như mong chờ, các bên có thể đồng thuận ly hôn khi đôi bên đạt được thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, trong trường hợp chỉ một bên muốn chấm dứt hôn nhân, có thể tiến hành theo thủ tục đơn phương ly hôn
Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Như vậy, để giải quyết đơn phương ly hôn,cần có căn cứ ly hôn
1. Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, bạo lực, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau.
2. Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình
3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng;

Về cơ bản, với sự cải thiện của pháp luật ngày nay cùng với việc bình đẳng giới tính, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em, việc đơn phương ly hôn đã trở nên dễ dàng hơn. Chỉ cần căn cứ dựa trên mức độ mục đích hôn nhân không đạt được. Khi một trong hai bên cảm thấy hôn nhân không hạnh phúc, đều có thể gửi đơn xin được ly hôn.

TỘI CHO VAY NẶNG LÃI THEO QUY ĐỊNH MỚI

TỘI CHO VAY NẶNG LÃI THEO QUY ĐỊNH MỚI

Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về lãi suất vay
”1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác…

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.”

Theo quy định Điều 201 Bộ luật hình sự năm 2015

1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, nếu mức lãi suất cao hơn lãi suất cao nhất pháp luật quy định 5 lần trở lên thì cấu thành tội cho vay nặng lãi theo pháp luật hình sự.